NHÂN SỨ
BoBi: Tây Du Ký
của Ngô Thừa Ân từ khi ra đời đến nay đã trên bốn thế kỷ, nhưng vẫn được nhân dân
TQ yêu thích và truyền tụng. Ở Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên để hiểu
thấu đáo được tác phẩm là điều không đơn giản. Tháng 9/1991, ông Lê Anh Dũng đã
cho đăng trên “Văn hóa và Đời sống” một loạt bài với tiêu đề chung là “Giải Mã
Truyện Tây Du”.
Bằng một kiến thức uyên thâm về Phật học, Đạo học và Thiền học, ông LAD đã luận
giải rất sâu sắc về một số sự kiện và bốn nhân vật của chuyến Tây Du. BoBi
nghĩ những người yêu thích Tây Du Ký nên có quyển “Giải Mã Truyện Tây Du” này
trong tủ sách cá nhân.
Trong Entry
này, BoBi trích đăng lại truyện ngắn NHÂN SỨ của cố nhà văn Hòa Vang để
các bạn tham khảo một cách nhìn khác về các thầy trò Đường Tăng. Truyện ngắn
này đã từng được giải báo Văn Nghệ, và sau đó được đăng lại trong “Ánh Trăng”
là tập truyện ngắn được giải năm 1991.
NHÂN SỨ
Tóm tắt phần
đầu truyện Nhân Sứ: Phần đầu nói về bệnh mất ngủ ở Tây Thiên. Phật Tổ không ngủ được vì bị
ngứa ở ngón tay, đó là di chứng do
nước tiểu của Đại Thánh (chỉ có lá dấu ở Ngũ Hành Sơn mới chữa được). Sa Ngộ Tĩnh một hôm choàng thức giấc, và hình ảnh toàn
bộ chuyến đi lần lượt trở lại trong ký ức, trong đó hình ảnh mỗi lần đại ca Tôn
đánh yêu quái thì đều bị Đường Tăng tìm cách cản trở hoặc thương cảm. Ngộ Tĩnh
chợt nghĩ: “- Hay là… sư phụ ta là... siêu yêu quái”. Vì ý nghĩ dằn vặt đó mà Sa
Ngộ Tĩnh cũng không thể ngủ lại được nữa. Sau đây là phần II và phần III của truyện:
Rạng sáng rồi nắng đẹp.
Chuông chùa Lôi Âm bỗng dóng dả từng hồi
dài. Có một đoàn thường nhân đủ nam phụ lão ấu tới chiêm bái Tây Thiên, kính
mong được tiếp kiến đàm luận thân ái hòa đồng với một Nhân Sứ.
Nghe báo, Như Lai điềm đạm:
- Một Nhân Sứ - một sứ giả, một đại diện của
con người nơi Tây Thiên này ư? Để ta ra trước xem.
Như Lai xuất hiện, hào quang ngũ sắc tỏa
sáng lòa nơi thêm cơ Lộc Uyển ngay trước Lôi Âm tự. Ánh sáng cũng làm phừng
phừng lung linh luôn cả đoàn người đang đập đầu bái Phật. Tiếng Ngài lồng lộng:
- Chính ta ra tiếp các ngươi đây.
Vị trưởng lão dẫn đầu đoàn người bèn chắp
tay thưa lên:
- Kính lạy Đức Chí Tôn, vinh hạnh này thật
khôn kể xiết. Nhưng… Chúng tôi muốn gặp một Nhân Sứ đích thực. Ngài đã từng là
Thái tử Tất Đạt Đa xưa, từng có vợ có con, từng đã là một người. Nhưng điều đó
đã quá lâu rồi. Bây giờ, tượng Ngài ở khắp mọi nơi, và dẫu bằng gì: đất, đá,
đồng đen hay gỗ mít phủ sơn then, bê tông cốt thép hay nhựa tái sinh… thì bất
phân chất liệu, mọi người cứ thấy là đã tự nhiên hương khói nghi ngút, chắp tay
quỳ rạp, mọp đầu, thổn thức hoặc ríu rít cầu khẩn. Đối với một người ai lại như
thế? Xin Đức Chí Tôn lượng thứ.
Như Lai gật gù, đoạn khoan dung hỏi tiếp:
- Vậy, liệu kẻ nào nơi đây gần gũi nhất với
các ngươi? Hay là bốn thầy trò cái đoàn đã đi lấy kinh của ta về phổ độ cho các
ngươi?
- Dạ… có lẽ là vậy.
Như Lai quay lại phất áo:
- Bớ Thiên Đàn Công Đức Phật!
Từ sau lưng Phật Tổ, Đường Tăng khoan thai
đi ra, từng bước như nhún theo tiếng
nhạc. Nhưng cả đám thiếu nhi bỗng nhao nhao:
- Chúng cháu không nói chuyện với ông này
đâu.
- Miệng ông ấy luôn bảo: Thật thà là căn cốt
của người tu hành, nhưng chính ông ấy lại mở đầu việc thâu nạp đồ đệ bằng một
điều dối trá, lừa Tôn Ngộ Không mặc vào bộ quần áo trấn yểm và đội chiếc mũ Kim
cô… Trùm bịp bợm, xấu lắm!
- Khi mắc nạn vụ mấy quả nhân sâm, ông ấy đã
đe Tôn Ngộ Không: “Nếu không tìm được cách thoát thì ta lại niệm chú” Người
nhân hậu tử tế ai lại lấy cái đau đớn lăn lộn của đồ đệ, làm sức ép bắt bí, cốt
hòng thoát cái thân mình như thế bao giờ…
- Ông ấy chỉ nhằm đạt mục đích của mình toàn
bằng công sức người khác, toàn những người tài giỏi, hữu ích hơn ông ấy bao
nhiêu…
- Ông ấy là một con người giả. Chúng cháu
ghét ông ấy lắm.
Như Lai còn đang ngạc nhiên thì Đường Tăng
đã xấu hổ, che mặt quay vào.
Phật Tổ hướng về phía đám trẻ:
- Chắc bọn bay chỉ thích được găph Tôn Ngộ
Không?
Chúng thiếu nhi liền vui sướng dạ ran.
Một cái phẩy tay của Như Lai, Đấu Chiến
Thắng Phật nhảy phóc ra, quắp một chân, vòng tay, nhún mình chào:
- Lão Tôn đây!
Nhưng lão trượng trưởng đoàn đã đứng dậy,
vòng tay:
- Kính thưa Đại Thánh, lòng chúng tôi thảy
đều xiết bao yêu kính, thích thú Đại Thánh, không riêng gì đám trẻ con kia.
Nhưng há có thể gọi Ngài là người được chăng? Hẳn Đại Thánh còn nhớ thuở Ngài
qua Đông Hải Thần Châu, dạt vào bờ, phải ra chợ nhót lấy áo quần mũ hài của đám
người lơ đễnh, rồi học đi, học đứng, học nói, học ăn đũa… sao cho tạm ra cái
dáng người mà trà trộn được. Rồi đến khi đã đủ đầy quyền phép, Ngài cũng vẫn
phải để cái đuôi mình thành một ngọn cờ đuôi nheo sau miếu. Tóm lại, xin Đại
Thánh tha lỗi, trước sau ngài vẫn chỉ là một con khỉ, không thể gọi là một con
người.
Đấu Chiến Thắng Phật gãi tai cành cạch rồi
cười khẹc khẹc vang động.
- Chí phải! Cái lão già chắt chút ta này nói
chí phải. Ta biến nhé!
Dứt lời, nhún mình, mất tăm dạng. Chỉ còn
thấy dư âm khẹc khẹc đã lẫn váo phía sau Như Lai.
Dưới một tán lá bồ đề mé cạnh, Tĩnh Đàn Sứ
Giả Trư Bát Giới cũng lúc cúc cúp tai lủi, bụng nghĩ: “Anh ta như chuông khánh
còn chẳng ăn ai vì lốt khỉ, huống ta, mảnh chĩnh thối lốt lợn, lười biếng, tham
ăn, háu gái, còn bề bề in đậm trong tâm não lũ thường nhân này, thì còn ló mặt
ra làm gì. Thôi, đi về tòa sen, làm một giấc ngủ ngày, há chẳng sung sướng tênh
tang ơn sao?”.
Thế là chỉ còn mỗi một danh tính Kim Thần La
Hán Sa Ngộ Tĩnh.
Lão trượng trưởng đoàn vòng tay:
- Xin cho chúng tôi được gặp người.
Như Lai thoáng cau mày, rồi hiền hòa cất
lời:
- Chẳng hay nhà ngươi không biết Sa Tăng là
nhân vật nhạt nhẽo nhất trong số bốn thầy trò Tây Du chăng?
- Dạ, chúng con biết rõ như vậy. Nhưng còn
biết rõ hơn: Nhạt nhẽo là thuộc tính thứ nhất của Con Người. Đức Chí Tôn thử
ngẫm xem: Trong một cuộc huyết chiến, số người chết được ghi đúng họ tên so với
số người táng mạng vô danh quả là hạt cát giữa sa mạc. Rồi gộp tất tật những
cuộc huyết chiến vì nghĩa cả ấy lại, thì tổng số người chết lại chẳng thấm tháp
vào đâu so với người chết vì dịch hạch, vì bão châu chấu, vì sóng thần, động
đất, núi lửa, vì các lục địa nứt ra trôi giạt, vì những hố đen trên mặt trời tự
nhiên cựa quậy, những đám bụi mặt trời là xuống hay cuộn lên không hề dự
báo…Thử hỏi, muôn triệu sinh linh ấy, sau khi tan biến, liệu có để lại chút xíu
dư vị hơn một hạt muối. Sa La Hán nhạt nhẽo, tức là đích thị Con Người. Xin Đức
Chí Tôn cho phép…
Như Lai chép miệng đĩnh đạc:
- Lão già mồm mép kia, gươi lại không biết
cả chặng vạn lý Tây Du, Sa Tăng chỉ suôt suốt gồng gánh?
- Dạ, gồng gánh, vai hằn lên mọi vết bầm vết
chai của các sức nặng, là âm bản của nhạt nhẽo. Gồng gánh suốt đời là thuộc
tính thứ hai của Con Người. Vả lại, chính các đại đức, thượng tọa thường truyền
dạy cho chúng con rằng: “Đứa hài nhi vừa được sinh ra đã có chiếc đòn gánh vô
hình nơi vai, và chiếc đòn nọ chỉ rời ra khi nó đã nằm trong quan tài”. Xin Đức
Chí Tôn cho chúng tôi được gặp Nhân Sứ Gồng Gánh ấy: Sa La Hán.
Phật Tổ nén một nhịp thở dài, xuất ngôn
chiêu cuối cùng:
- Này, lão đầu đàn đáo để, các ngươi mời gọi
một kẻ đã từng ăn thịt người… tha thiết đến thế hay sao?
- Dạ, Chúng con biểt rõ và nhớ: Sa Tăng đã
từng ăn thịt người. Nhưng chúng con còn biết và nhớ hơn: Khi Người bị vây hãm
vào cảnh cùng cực đói khát. Ở cảnh ấy thì đã có biết bao nhiêu kẻ đồng hành ăn
thịt nhau! Chồng ăn thịt vợ, mẹ ăn thịt con… Đức Chí Tôn ơi! Đau đớn thay! Có
thể ăn thịt người khi đói khát cùng cực cũng lại là một thuộc tính của Con Người.
Chợt không thấy Như Lai đâu nữa. Hào quang,
ngũ sắc cũng tan biến…
Và trong ánh sángthường tình, giữa sắc xanh
cây lá, cỏ hoa thường tình… Sa Ngộ Tĩnh bước ra, nhập vào đoàn Người, cả bọn
kéo nhau vào Lộc Uyển râm mát, quây quần trò chuyện…
*
III. Tống biệt hành.
Đã lại tròn một tuần trăng. Một đêm …
Sa Ngộ Tĩnh đến trước Như Lai, áp hẳn đầu
vào vế đùi Ngài, ngước lên, khẩn nài:
- Thống Phụ Chí Tôn… xin người cho con được
phế bỏ toàn bộ công lực của một La Hán, hạ sơn, độc cô hành Đông du về lại sông
Lưu Sa xưa, làm một người thường chài lưới trên sông nước, chiều chiều thổi một
ống tiêu, nhấp một ngụm rượu, nướng con cá nhỏ, và đợi một người đàn bà, lấy vợ
sinh con… Sau nữa, thành thường nhân rồi, qua Ngũ Hành Sơn, con sẽ hái được lá
dấu gửi về cho Người.
Như Lai thấy nao lòng. Ngài cúi xuống, đặt
tay lên vầng trán Sa Ngộ Tĩnh, thầm ban thiện phước, rồi khẽ khàng:
- Thôi, con đi. Cảm ơn con đã nghĩ đến ta.
Việc đó nếu tiện, cũng nên làm.
*
Phút giã biệt giữa bốn thầy trò thật là bịn
rịn.
Đường Tăng trao tấm Cẩm-Lan-cà-sa:
- Này con, đây là áo khoác đi đường, cuộn
lại làm gối, trải ra làm chăn khi ngủ, vải xé băng bó và lau rửa những vết
thương…
Ngộ Không tháo vành Kim-cô:
- Xưa, đây là nỗi đau, là sức ép, nó mạnh
hơn cả ta. Nay, nỗi đau không còn, nhưng sức mạnh vẫn vẹn nguyên đó, lại thêm
vào cả tình anh em của ta. Khá giữ lấy, phòng khi thậm nguy nan.
Bát Giới thót bụng, há miệng, ợ một tiếng,
quả nhân sâm hồng tươi nguyên vẹn liền vọt ra:
- Đó, phàm những thứ nuốt chửng, dẫu có được
lên ngự trên tòa sen rồi, vẫn không thể tiêu biến. Chú cầm lấy, đừng chê, nhỡ
khi lỡ bữa đói lòng…
Sa Nhân Sứ bái tạ thầy và hai anh lần cuối
hồi lâu, rồi quay gót thoăn thoắt xuống núi.
Ba thầy trò vẫn đứng mãi, hun hút ngóng
theo… thốt nhiên, tất thảy đều rùng mình ớn lạnh, như hơi ấm đã quần bám, đã đi
theo từng bước chân người họ Sa xuống dần, xuống dần, tít tắp tận dưới kia -
nơi đám bụi vẩn hồng hồng vừa khỏa lấp, vừa thâu nhận thêm một hạt bụi người -
Nơi xóm chợ chân núi, xao xác đủ tiếng cho gà, tiếng trâu ngựa, tiếng vẹt yểng…
và tiếng Người.
Chỗ thầy trò giã biệt trên núi cao ấy, mãi
sau mới có người biết! Có ba pho tượng đá, ba cặp mắt đá, không có con ngươi,
nhưng vẫn rõ hướng ngong ngóng dõi theo con đường xuống núi. Nhiều người đem
đèn nhang hương hoa đến bái tạ, cầu cúng. Lâu lâu nhận ra rằng: Phàm việc cao
khoát quảng đại đều không mấy ứng nghiệm. Có chăng cũng chỉ ang áng lơ mơ. Vận
vào bảo đúng bảo sai đều được, Nhưng những thỉnh cầu nhỏ rõ, cấp bách thì thực
linh ứng. Ví như: Đói rã, khát lả. Lại ví như: Mất ngủ, lở ngứa, đau đầu, đầy
bụng… thì thành tâm lễ khấn trong vòng một tuần nhang cháy trọn ắt đều được như
nguyện”